Tuyên Quang có trên 22 dân tộc cùng chung sống; thiên nhiên Tuyên Quang tươi đẹp và hùng vĩ, tiềm ẩn nguồn tài nguyên phong phú về khoáng sản, đất rừng, du lịch…
Thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, Tuyên Quang có căn cứ địa Tân Trào nổi tiếng, là trung tâm Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến, là biểu tượng rực rỡ của cách mạng Việt Nam.
[You must be registered and logged in to see this image.]Thiếu nữ dân tộc Dao đỏ
Là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc anh em, tiêu biểu như các dân tộc: Kinh, Tày, Dao, Cao Lan, Mông, Sán Dìu, Pà Thẻn
Tuyên Quang là một vùng văn hoá đa hương sắc. Suốt chiều dài lịch sử, cộng đồng các dân tộc anh em đang chung sống trên mảnh đất Tuyên Quang đã đoàn kết, gắn bó, phát huy truyền thống lao động cần cù để xây dựng, bảo vệ quê hương và sáng tạo ra những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
Nét chung về đời sống tín ngưỡng, tâm linh của các dân tộc tỉnh Tuyên Quang là đều thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã khuất, Thành Hoàng làng, người có công mở đất, dạy nghề,... thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Ngoài ra, mỗi dân tộc có nét riêng, như: Dân tộc Kinh chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, một bộ phận theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, một bộ phận theo đạo Phật; các dân tộc thiểu số cũng chịu ảnh hưởng của Tam giáo và còn thờ cúng các loại ma, thần; riêng dân tộc Mông có một bộ phận theo đạo Tin Lành.
Mỗi dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán riêng. Về tiếng nói, được xếp vào 4 nhóm chính là: Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (có dân tộc Kinh); nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (có các dân tộc Tày, Cao Lan, Nùng); nhóm ngôn ngữ Mông - Dao (có các dân tộc Mông, Dao, Pà Thẻn, Tống); nhóm ngôn ngữ Hán (có các dân tộc Sán Dìu, Hoa). Các phong tục tập quán mang nét chung là có liên quan đến chu kỳ một đời người như: Phong tục sinh đẻ, nuôi con, cưới xin, làm nhà, tang lễ và trong lao động sản xuất, sinh hoạt; trong đó, có những phong tục đẹp như: hát Quan làng trong lễ cưới của dân tộc Tày, hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu, hát Páo dung và cấp sắc của dân tộc Dao, hát Sình ca của dân tộc Cao Lan,...
Lễ hội dân gian của các dân tộc thường được tổ chức sau tết Nguyên Đán với phần nghi lễ trang trọng và phần hội đậm đà bản sắc dân tộc, tiêu biểu có lễ hội ***g Tông (xuống đồng) của dân tộc Tày, lễ hội Dâng hương tại đình Giếng Tanh, Minh Cầm của dân tộc Cao Lan, lễ Cầu mùa của dân tộc Dao Tiền...
Mỗi dân tộc còn có kho tàng văn học, văn nghệ dân gian như: Hát đồng giao, truyện kể, tục ngữ, thành ngữ, câu đố... phong phú về thể loại và nội dung, mang sắc thái riêng, độc đáo, giàu tính nhân văn và giáo dục sâu sắc.
[You must be registered and logged in to see this image.]Đêm chung kết cuộc thi Hoa Hậu Thành Tuyên
Dân tộc Tày có điệu hát Quan làng (hát đưa dâu về nhà chống), hát Cọi, Sli, Lượn, Phong slư (hát đối đáp giao duyên nam nữ), hát Then, Pụt (hát nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo) và một số điệu múa như: Múa Then, múa Sinh tiền, múa Nón, múa Gieo hạt, múa Khảm hải, múa Quạt,...; dân tộc Cao Lan có hát Sình ca (hát đối đáp giao duyên nam nữ), các điệu múa như: Nhảy tam thanh, Chim gâu, Xúc tép, múa Khai đèn, múa Cờ,...; dân tộc Dao có điệu hát páo dung (hát đối đáp giao duyên nam nữ), các điệu múa như: tết nhảy, Cầu mùa, Bắt ba ba, múa Màng; dân tộc Sán Dìu có điệu hát Soọng cô (hát đối đáp giao duyên nam nữ), múa Kéo chài; dân tộc Nùng có hát Lượn (hát đối đáp giao duyên nam nữ); dân tộc Mông có điệu hat Mồ côi, Tiếng hát làm dâu, có múa Khèn.
Những nhạc cụ độc đáo của mỗi dân tộc đóng vai trò truyền cảm hiệu quả như: đàn Tính, quả nhạc của dân tộc Tày; khèn, kèn lá, sáo trúc của dân tộc Mông; bộ gõ của dân tộc Dao, Cao Lan...
Kiến trúc về nhà cửa truyền thống, kiểu dáng trang phục, họa tiết, trang sức,...của mỗi dân tộc cũng rất đặc sắc và phong phú, biểu hiện quan niệm về vũ trụ, về thiên nhiên và con người, về tập quán và quan niệm cuộc sống của mỗi dân tộc. Dân tộc kinh từ vùng xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới, cư trú xen kẽ với các dân tộc thiểu số, nhà ở mang nét kiến trúc nhà nông thôn đồng bằng Bắc bộ; nhà ở của các dân tộc Tày, Nùng, Dao (ngành Thanh Y, Quần Trăng, Áo Dài), Cao Lan có kiến trúc nhà sàn, tuy nhiên nhà sàn của mỗi dân tộc, ngành dân tộc có nét rất khác nhau.
Các dân tộc ở Tuyên Quang có nhiều món ăn truyền thống mang tính văn hoá ẩm thực đặc sắc như: Món mắm cá ruộng, thịt ướp, cơm lam, bánh trứng kiến của người Tày; món thịt mỡ muối, thịt bò khô, thịt trâu khô, cá thính của người Sán Dìu...
Tỉnh Tuyên Quang có nhiều đền, miếu thờ, và các ngôi chùa cổ kính, linh thiêng.
Với 467 di tích lịch sử và nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, cùng với những nét văn hoá phong phú, đặc sắc của các dân tộc, Tuyên Quang là một bảo tàng văn hoá - cách mạng, là một điểm đến hấp dẫn của du khách bốn phương.
Nguồn từ trang Điện tử tỉnh Tuyên Quang